Tiền kim loại cổ đại Kim_bản_vị

Kim loại đầu tiên được sử dụng làm tiền là bạc hơn 4.000 năm trước, khi những miếng bạc được sử dụng trong buôn bán. Những đồng xu bằng vàng đầu tiên được dùng bắt đầu từ 600 năm trước Công nguyên (TCN). Tuy vậy, trước thời điểm đó khá lâu, vàng cũng như bạc đã được sử dụng làm vật lưu trữ của cải và cơ sở cho các giao kèo buôn bán ở Akkadia (một thành phố Tiểu Á) và sau đó là Ai Cập Cổ đại. Bạc vẫn là kim loại tiền phổ biến nhất trong các giao dịch thông thường cho đến thế kỷ 20. Ngày nay, nó vẫn được lưu thông ở dạng tiền xu có hai kim loại, như đồng 20 pê-xô của México phát hành năm 2006.

Đế chế Ba Tư thu thuế bằng vàng, và khi đế chế này bị Alexander Đại Đế chinh phục, số vàng được đúc thành tiền của đế quốc do ông đứng đầu. Vàng được dùng để trả lương cho quân đội và thưởng cho lính đánh thuê, việc này càng củng cố sự quan trọng của vàng. Như được nói đến trong tác phẩm "Hoàng tử" (The Prince) của Niccolo Machiavelli hai ngàn năm sau đó thì, vàng đã trở nên đồng nghĩa với việc chi dùng cho các chiến dịch quân sự. Đế chế La Mã đúc hai loại tiền xu quan trọng, đó là đồng aureus, nặng 7 gram hợp kim vàng-bạc; và đồng solidus, nặng 4,4 gram trong đó có 4,2 gram vàng. Các xưởng đúc tiền La Mã tích cực một cách xuất sắc - người La Mã đúc và lưu hành hàng triệu đồng xu tiền trong thời gian nền Cộng hòa và thời gian Đế chế.

Sau sự sụp đổ của Đế quốc Tây La Mã và các mỏ vàng ở Châu Âu đã cạn kiệt, Đế quốc Đông La Mã (còn gọi là Đế quốc Byzantine) đúc đồng tiền nimisma hay bezant để kế thừa đồng solidus. Đồng tiền xu mới này có khối lượng và độ tinh khiết như đồng xu cũ và vẫn được coi là đồng solidi. Thật đáng tiếc, Đế quốc Byzantine, vào khoảng năm 1030 giảm dần hàm lượng vàng trong tiền xu của nó cho đến khi tiền xu trong lưu thông chỉ còn 15% vàng. Điều này thể hiện sự mất mát giá trị khủng khiếp của đồng tiền này so với những đồng tiền xu thời La Mã vốn có hàm lượng vàng từ 95% đến 98%.

Từ cuối thế kỷ thứ 7, đồng dinar dần trở thành đồng tiền của thương mại quốc tế. Đồng dinar được phát hành bởi Để chế Ả rập, theo hình mẫu của đồng tiền solidus La Mã, có cùng kích thước, khối lượng, hàm lượng vàng. Dinar và solidus của Đế quốc Đông La Mã cùng tồn tại trong lưu thông trong 350 năm, sau đó, đồng solidus bắt đầu suy yếu.

Đồng dinar bằng vàng và đồng dirham bằng bạc đều có nguồn gốc từ người Ba Tư (Persian). Sau đó, những vị vua đạo Hồi cũng chọn đồng tiền này làm tiền của vương quốc, thậm chí Abd al-Malik (trị vì 685-705) cải cách đồng tiền đến mức mà người ta nghĩ rằng đồng dinar và dirham có xuất xứ từ đây. Ông bỏ những hình vẽ trên đồng xu, quy định chuẩn mực của đồng tiền phải nói về Thượng đế (Allah) và ấn định tỷ lệ vàng-bạc. Thế lực và thương mại lớn mạnh của đạo Hồi đưa đồng dinar trở thành đồng tiền thống trị từ bờ biển phía tây Châu Phi cho đến bắc Ấn Độ tới tận những năm 1200, và nó vẫn là đồng tiền chủ chốt trong hàng mấy trăm năm sau đó. Vậy là đồng solidus, với những đặc điểm của như kích thước, hàm lượng, khối lượng và dù dưới nhiều tên khác như dinar, bezant, đã trở thành đơn vị tính toán giá trị trong hơn 1.300 năm qua ba đế chế hùng mạnh.

Năm 1284, Cộng hòa Venice (còn có tên Serenissima - một thành quốc Italia tồn tại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 18) phát hành đồng tiền vàng đầu tiên của nó, đồng ducat. Đồng tiền trở thành chuẩn mực của tiền xu châu Âu cho 600 năm tiếp theo. Các đồng xu khác là đồng florin, noble, grosh, zloty và guinea cũng được phát hành thời gian này ở các quốc gia châu Âu khác nhằm tạo điều kiện mở rộng thương mại. Đồng ducat, nhờ vai trò ưu việt hơn hẳn trong giao thương với thế giới đạo Hồi và khả năng xây dựng quỹ dự trữ vàng mới, đã là đồng tiền tiêu chuẩn để các đồng tiền khác quy đổi.

Châu Mỹ, từ khi bắt đầu chinh phục đế chế AztecInca của người da đỏ, Tây Ban Nha vốn chỉ có nhiều bạc, đã tiếp cận được nguồn vàng mới để đúc tiền. Đơn vị tiền bằng vàng cơ bản của Tây Ban Nha là đồng escudo, và đồng "doblión" (tương đương 8 escudo). Đồng doblion ban đầu được ấn định nặng 27,68 gram vàng 22 carat (92%) và có giá trị gấp 16 lần lượng bạc tương đương. Năm 1704, khu vực Caribe lựa chọn vàng là tiền tệ lưu hành nhờ lượng vàng dồi dào của nó. Việc lưu hành tiền xu của Tây Ban Nha tạo ra đơn vị đo giá trị của Hoa Kỳ, đồng đôla dựa trên nguồn bạc của Tây Ban Nha và thị trường tiền tệ Philadelphia bắt đầu giao dịch bằng đồng tiền thuộc địa Tây Ban Nha.